Chương I: Câu chuyện ở đền Hạng Vương

6.1K 98 0
                                    

Quan Thừa chỉ Hồ Tông Thốc (1) là người hay thơ, lại giỏi lối mỉa mai giễu cợt, khoảng cuối đời Trần, phụng mệnh sang Trung Quốc, nhân đi qua đền Hạng vương có đề thơ rằng:

Bách nhị sơn hà khởi chiến phong,

Huề tương tử đệ nhập Quan Trung.

Yên tiêu Hàm Cốc châu cung lãnh,

Tuyết tán Hồng Môn ngọc đẩu không.

Nhất bại hữu thiên vong Trạch Tả,

Trùng lai vô địa đáo Giang Đông.

Kinh doanh ngũ tải thành hà sự?

Tiêu đắc khu khu táng Lỗ công.

Dịch:

Nom nước trăm hai (2) nổi bụng hồng,

Đem đoàn tử đệ đến Quan Trung

Khói tan Hàm Cốc cung châu lạnh, (3)

Tuyết rã Hồng Môn đấu ngọc không (4)

Thua chạy giời xui đường Trạch Tả (5)

Quay về đất lấp nẻo Giang Đông (6)

Năm năm lăn lộn hoài công cốc

Còn được vùi trong mả Lỗ công (7).

* Nguyên văn: Hạng vương từ ký.

Đề xong, ruổi ngựa trở về nhà trọ. Rượu say nằm ngủ, ông Hồ chiêm bao thấy một người đến nói với mình rằng:

- Tôi vâng chỉ của đức vua tôi, mời ngài đến chơi nói chuyện.

Hồ vội vàng sửa sang quần áo. Người ấy đưa ông đi về mé tả, đến một nơi cung điện nguy nga, quan hầu đứng sắp hàng răm rắp, Hạng vương đã ngồi chờ sẵn, bên cạnh có cái giường lưu ly, mời ông lên ngồi. Rồi Hạng vương hỏi rằng:

- Bài thơ ông đề lúc ban ngày, sao mà mỉa mai ta dữ thế! ừ thì hai câu: "Thua chạy giời xui đường Trạch Tả, Quay về đất lấp nẻo Giang Đông" kể cũng là đúng, nhưng đến hai câu "Năm năm lăn lộn hoài công cốc, Còn được vùi trong mả Lỗ công", há chẳng phải là chê bai quá lời ư? Này như Hán làm nên vạn thặng (8) ta cũng làm nên vạn thặng. Ta không diệt được Hán, Hán lại có thể phong tước cho ta được ư? Đến ngay Điền Hoành (9) là một gã trẻ con, còn không tham tước của Hán, và hổ thẹn tự sát mà chết; huống ta đường đường một vị bá vương ở nước Sở, lại tự cam nhận lễ Lỗ công hay sao? Kẻ kia làm việc ấy, chỉ là đem quàng cho ta một cái tước vị hão, để đền bù lại sự hổ thẹn khi ở Hán Trung (10) thôi đó. Ta lại xin nói để ông rõ: Ngày nhà Tần sổ mất con hươu (11), người ta nổi dậy nhao nhao, tranh nhau bắt lấy. Ta bấy giờ vì ghét người Tần mà nổi quân đánh Tần, tháo răng bừa làm giáo, thổi cơm chiêm làm lương, tôi đòi đều là quân, hào kiệt đều là tướng, phá xứ Ngô như hủy tổ kiến, lấy đất Hoài như đốt lông hồng, một trận đánh mà quân Chương Hàm (12) phải tan, hai trận đánh mà miếu Tổ Long (13) phải sụp. Đức nghĩa ban ra, nhiều nước được dựng lại, oai lệnh truyền đi, bao kẻ thuận làm tôi. Đứng đầu Chư hầu là quân nước Sở, làm chúa Tam Tần là tướng xứ Sở. Thiên hạ theo về nước Sở có thể ngồi mà sai khiến được. Nhưng rồi Sở phải chết vì Hán, há chẳng phải là bởi trời ư? Vậy thì khi trời định giúp Hán, dù kẻ thổi kèn, dệt chiếu (14) cũng đủ để thành công; khi trời định diệt Sở, dù người cất vạc, nhổ núi (15) cũng không thể nói giỏi. Phương chi Chung Ly mạnh mẽ, chẳng kém Hoài Âm (16) á Phụ (17) khôn ngoan, thực hơn Nhụ Tử (18). Nếu ta nghe lời không cố chấp, nhân thua mà tính toán, thì ruổi Ô truy bốn vó mỏi chồn, há không đủ cày lật cung đình Phong Bái, thu Bành Thành (19) những quân tản mác, há không đủ đào tung miếu xã Viêm Lưu. Nhưng chỉ vì thương lũ sinh linh, nên mới đem tấm thân tám thước đường đường, ném vào tay lũ Vương ế (20). Vậy sự hưng vong của Hán, Sở, chỉ là do ở sự may rủi của trời mà thôi, há nên lấy thành bại mà so bì ư? Nhưng đời những kẻ thích phẩm bình nhân vật, có kẻ bảo không phải giời làm mất, có kẻ bảo giời có dính dáng gì. Thi nhân mặc khách thường thường đem chuyện ta diễn vào trong thơ. Có câu thì:

Cái thế anh hùng sức nhổ núi,

Sở ca bốn mặt lệ tràn lan, (21)

Có câu thì:

Vua chẳng ra vua, tôi chẳng tôi,

Bên sông lập miếu cũng hoài thôi. (22)

Ngày chồng tháng chất, có đến hàng nghìn bài chứ không phải ít. Nhưng chỉ có hai câu của Đỗ Mục: (23)

Giang đông tử đệ nhiều tay giỏi,

Cuốn đất quay về chửa biết đâu.

Lời thơ ủy khúc trung hậu, hợp cách luật của nhà thơ, đọc lên ta còn vừa lòng đôi chút. Ngoài ra thì hầu toàn những lời phụ bạc, ta vẫn lấy làm bất bình lắm, nay tiện dịp ta nói để cho ông rõ.

Ông Hồ cười mà rằng:

- Lẽ trời việc người, cũng là đầu cuối lẫn cho nhau. Bảo mệnh ở trời, (24) Thương Trụ vì thế mà mất nước; bảo trời sinh đức, Tân Mãng vì thế mà bỏ mình. (25) Nay nhà vua bỏ việc người mà đi bàn lẽ giời, vì thế đã đến táng bại vẫn không tỉnh ngộ. Tôi bữa nay may mắn, được nhà vua vời đến tiếp kiến, muốn xin được nói thẳng không giấu giếm gì, nhà vua nghĩ thế nào?

Hạng vương nói:

- Vâng vâng, ông cứ nói.

Ông Hồ nói:

- Phàm xoay cái thế thiên hạ, ở trí chứ không phải ở sức; thu tấm lòng thiên hạ, ở nhân chứ không phải ở bạo. Nhà vua thì chỉ lấy quát thét làm oai, lấy cương cường làm đức. Chém Tống Nghĩa là một tướng mạnh, (26) vô quân đến đâu! Giết Tử Anh là người đã hàng, (27) bất võ quá lắm! Hàn Sinh vô tội mà bị luộc, (28) hình pháp trái thường; A Phòng vô cố mà bị thiêu (29), hung uy quá tệ. Cứ những việc của nhà vua làm thì được lòng người chăng? hay mất lòng người chăng?

Hạng vương nói:

- Không phải như thế. Này như cái việc Hàm Đan, lấy một nước Triệu mới dựng, chống với nước Tần sói hùm, thành bại chỉ ở trong một hơi thở, còn mất chỉ ở trong chớp mắt. Vậy mà Nghĩa lần khân sợ sệt, chờ khi giặc mỏi lười, dùng dằng trùng trình, cản đường quân tiến tới. Nếu mà kế trong trướng không thi hành được, quân qua sông lại lữa lần thêm, thì dân chúng ở trong thành Triệu, sẽ lại có cái thảm họa hơn là ở Trường Bình (30) thủa trước. Vậy thì ta giết một Tống Nghĩa, mà cứu sống được tính mệnh cho trăm vạn sinh linh, có gì là quá! Vua các nước đều là chư hầu, đều có chúng dân, có xã tắc, tước thì của thiên vương phong cho, đất thì của thiên vương ban cho. Vậy mà Tần lợi dụng đất cát, ngông cuồng giáp binh, mổ Hàn thịt Triệu, hiếp Ngụy hại Yên, nam thì lừa Sở rồi bắt mà giữ lại, đông thì dối Tề để hãm cho chết đói. Nếu không lật đổ ngôi Tần và tru diệt họ Tần thì cái hờn cắn nuốt các nước, không biết ngày nào tiêu tan được. Cho nên ta giết một Tử Anh để trả mối thù diệt vong cho sáu nước, có gì là tệ. Ôm bụng trung lương là tiết lớn của kẻ làm tôi. Hàn Sinh thì không thế, khoe mẽ hợm mình, vong ân bội nghĩa, múa lưỡi để chỉ nghị quân thần, khua môi để buông lời sàm báng. Vì vậy ta đem làm thịt, để những kẻ bất trung biết mà răn sợ. Giữ thói tiết kiệm là đức tốt của người làm vua, Thủy Hoàng thì không thế, xây cung ở bên sông, mở đường ở ven núi, đắp nền cho cao bằng những hờn oán của dân, chứa kho cho đầy bằng những máu mỡ của dân. Vì vậy ta đem đốt đi để những vua đời sau biết nên dè sẻn. Nếu lại buộc tội về những điều ấy thì ta trộm lấy làm không phục.

Ông Hồ nói:

- Thế thì sáu kinh trong lửa, đốt sách Thánh nhân, thước kiếm trên sông, giết vua Nghĩa đế, những việc ấy chi mà nhẫn tâm như vậy! Sao bằng người Hán: sợ lỗi phận vua tôi thì nghe lời Đổng công làm việc nhân nghĩa, khiến nền nếp đế vương hầu rối mà lại sáng; sợ thất truyền đạo học thì về đất Khúc Phụ, bày lễ thái lao, khiến dòng nguồn thi thư hầu đứt mà lại nối. Cho nên người ta có câu nói rằng: "Hán được thiên hạ, không ở cất dùng Tiêu, Trương, mà ở việc để trở (31) của ba quân, gợi lòng trung phẫn các hào kiệt; Hán giữ thiên hạ không ở quy mô rộng lớn mà ở việc thân đến tế ở Khúc Phụ (32), mở nền nương tựa cho đời sau". Nhà vua thì so ví làm sao được với Hán vương.

Hạng vương nghẹn lời không biết nói ra sao, sắc mặt tái như tro nguội. Bên cạnh có một vị lão thần họ Phạm, tiến lên nói rằng:

- Tôi nghe, làm người ta không ngoài trời đất để mà sống, làm chính trị không ngoài cương thường để dựng nước. Bầy tôi của Đại vương đây có người tên là Cữu (33) tiết cứng như tùng, lòng bền tựa đá, sa cơ không chịu sống nhục, liều mình để được thác mà vinh; nếu không phải nhà vua biết cách chống ngự thì sao có sự tử trung ấy! Truyện (34) có nói rằng: "Vua khiến bề tôi lấy lễ, bề tôi thờ vua lấy trung"; ở Đại vương đây, chính là đã đúng hợp với câu ấy. Chứ như kẻ kia, sai Ung Sỉ giữ đất Phong thì Ung Sỉ đầu hàng, (35) sai Trần Hy (36) coi nước Triệu thì Trần Hy làm phản; đạo cương thường hỏi ai là hơn? Hậu cung của Đại vương có bà họ Ngu, mệnh nhẹ lá thu, hồn theo bóng kiếm, gửi lòng thơm ở ngọn cỏ tịch mịch, chôn hờn oán ở cánh đồng hoang vu (37), nếu không phải nhà vua biết lẽ cư xử thì sao có sự tận tiết ấy! Kinh Thi có câu rằng: "Dạy vợ mình trước, sẽ trị nhà nước"; ở Đại vương đây chính là đã xứng đáng với câu ấy. Chứ như kẻ kia, Lã Trĩ ngông ngạo mà làm việc dâm tà (38), Thích Cơ được yêu, rồi đầy thân con lợn (39); lẽ cương thường hỏi bên nào hơn? Huống chi như trái lẽ trời mà bảo sẻ chén canh, yêu con bé mà coi thường gốc nước; (40) luân thường cha con hỏi rằng để đâu? Những người nghị luận ở đời sau, chẳng so nặng nhẹ, chẳng xét phải trái, lòng không suy nghĩ, miệng chỉ quàng xiên, đối Hán thì khen ngợi chẳng tiếc lời, đối Sở thì chê bai không tiếc sức, khiến đấng Đại vương của chúng tôi trong cõi u minh cứ phải chịu những lời mỉa mai cay độc. Vậy mong những điều nhơ tiếng xấu, phiền ông gột rửa giùm cho, cũng là một việc thú trong cuộc gặp gỡ của chúng ta.

Ông Hồ thấy lời nói cũng hơi có lý, gật đầu hai ba lần, rồi ngoảnh bảo những người theo:

- Các ngươi ghi nhớ lấy.

Rồi đó canh tàn trà cạn, ông đứng dậy từ giã xin về; Hạng vương đưa chân ra đến cửa thì phương đông đã dần sáng rạng. Ông xốc áo vùng dậy, té ra là một giấc chiêm bao, bèn mua rượu và nem bày một lễ cúng ở đầu thuyền trước khi rời khỏi đấy.

Lời bình:

Than ôi, so Sở với Hán thì Hán hơn, sánh Hán với bậc vương đạo, Hán còn xa lắm. Sao vậy? Hồng Môn nổi giận, Thái công tha về, những việc ấy, Sở không phải là bất nhân; nhưng nhân nông mà ác sâu. Làm cỏ Dĩnh Xuyên, (41) giết hại công thần, những việc ấy, Hán không phải là không có lỗi, nhưng lỗi ít, tốt nhiều. Sở đã đành trái với nhân nghĩa, nhưng Hán cũng chỉ là giống với nhân nghĩa. Họ Hạng nước Sở không được là hạng bá giả mà vua Cao nhà Hán cũng là tẹp nhẹp. Kẻ trị thiên hạ nên tiến lên đến đạo thuần vương, còn Hán Sở nhân với bất nhân, hãy gác ra không cần bàn đến. 

Truyền Kì Mạn LụcWhere stories live. Discover now