BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH – PHẠM TIẾN DUẬT
A.Tác giả:
- Phạm Tiến Duật là một trong những tác giả tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời chống Mĩ cứu nước với những tác phẩm viết về người lính và cô thanh niên xung phong trên đường Trường Sơn.
- Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.
B. Tác phẩm
1. Giới thiệu khái quát
-Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật được sáng tác năm 1969 trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ , tình đồng chí đồng đội gắn bó, tình yêu đất nước thiết tha...
- Bài thơ bắt đầu với nhan đề tưởng thừa mà lại không. Dưới cái nhìn của một người lính gắn mình với khói lửa Trường Sơn, tiểu đội xe không kính -hình ảnh vốn quen thuộc và rất đỗi trần trụi ấy lại mang vẻ đẹp đầy chất thơ
2. Phân tích
a. Hình ảnh những chiếc xe không kính:
- Mở đâu bài thơ, tác giả đã giúp người đọc hình dung được hình ảnh những chiếc xe không kính trên tuyển lửa Trường Sơn thông qua hai câu thơ giàu chất hiện thực:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồiXe không kính là một hình ảnh quen thuộc, thường thấy ở tuyến lửa Trường Sơn trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ. Nhưng trong thơ ca thì có lẽ đây là lần đầu hình ảnh ấy xuất hiện. Ở hai câu thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả rất thực. Lời thơ tự nhiên như lời nói thường ngày. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Bằng biện pháp tu từ điệp ngữ với các từ phủ định "không" được lặp lại nhiều lần, Phạm Tiến Duật như muốn nói rằng xe không kính không phải do cấu tạo ban đầu của nó. Vậy thì do đâu? Câu thơ thứ 2 đã giải thích cho điều này. Với các động từ mạnh "giật, rung" lời thơ đã cho ta nhận ra rằng chính bom đạn của chiến tranh đã tàn phá khiến cho những chiếc xe vận tải vốn nguyên vẹn, lành lặn giờ đây trở thành không kính. Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh, song phải có một hồn thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chống Mĩ. Và từ hình ảnh ấy, tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua.
-Chiếc xe ấy càng biến dạng, trần trụi hơn nữa khi xuất hiện ở cuối bài thơ:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước.
+ Điệp ngữ "không có" một lần nữa tô đậm sự thiếu thốn về vật chất, trang bị. Là xe đấy mà dường như chẳng còn là xe. Dù vậy "xe vẫn chạy", vẫn hiên ngang, ngạo nghễ băng băng trên tuyến lửa hướng về miền Nam.
-->Hình ảnh những chiếc xe không có kính vốn thường gặp trong chiến tranh nhưng phải có một hồn thơ nhạy cảm, tinh nghịch như Phạm Tiến Duật mới nhận ra và đưa nó trở thành hình tượng thơ độc đáo.
b. Hình ảnh người lính lái xe:
- Tư thế hiên ngang, dung cảm:
+ Miêu tả những chiếc xe không có kính nhưng chủ yếu để làm rõ phẩm chất của người lái xe. Bởi vậy, ngay sau hình ảnh chiếc xe, nổi bật trên trang thơ là hình ảnh người lính . Chính trong cái ác liệt của cuộc chiến, chính từ những cái "không" đó thì tư thế ung dung, hiên ngang của những người lính lại được thể hiện rõ nét:
"Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời,nhìn thẳng".
Tư thế của những người lính lái xe mới ung dung và đường hoàng làm sao! Đặt từ "ung dung" lên đầu câu, dường như nhà thơ muốn nhấn mạnh vào tư thế chủ động trước mọi hoàn cảnh. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu nhưng người lính vẫn không hề tỏ ra lo lắng. Họ bình tĩnh, tự tin đưa chiếc xe đi vút giữa làn đạn. Động từ "nhìn" biểu thị sự tập trung cao độ. Chữ "nhìn thẳng" khiến ta hình dung như họ đang đối mặt thẳng thắn với gian khổ, hi sinh mà không hề né tránh, không hề run sợ.
+ Đoạn thơ tiếp theo miêu tả cảm giác rất thật của người lái chiếc xe không có kính:
" Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái".
Nhịp thơ cùng cách điệp lại từ "nhìn" với các hình ảnh cụ thể như "gió" –"con đường","sao trời","cánh chim"... đã diễn tả một cách chân thực và sinh động cảm giác, ấn tượng của người lính lái xe không kính trên đường ra trận. Lúc này, mọi khó khăn, nguy hiểm đã lùi lại, nhường chỗ để các anh đón nhận những âm thanh trong trẻo,ùa vào khoảng lặng của cuộc chiến ác liệt. Tâm hồn lãng mạn đã thăng hoa trong bội bề gian truân, mất mát. Sao trời vẫn sáng đường chiến dịch; cánh chim bền bỉ, đột ngột mà không cô đơn. Từ "đột ngột" được dùng rất "đắt" trong câu đảo thành phần này đã diễn tả động thái đẹp của thiên nhiên, của cánh chim trời. Cánh chim được nghệ thuật hóa, để rồi được nhân hóa qua hai từ "sa", "ùa" hết sức tự nhiên, không vướng bận. Tất cả cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người lính lái xe Trường Sơn. Đúng là"Đường ra trận mùa này đẹp lắm! Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây". Có thể nói, người lính đã chiến thắng bom đạn của kẻ thù bằng cái nhìn bình thản. Con đường chạy thẳng vào tim mà họ nhìn thấy không chỉ là con đường chiến lược Trường Sơn xe đang đi mà đó còn là con đường cách mạng,con đường giải phóng miền Nam, con đường mà thế hệ trẻ Việt Nam đã mang cả tuổi thanh xuân, máu xương của mình để giữ gìn, bảo vệ;đẹp mà hiên ngang, gian khổ mà lạc quan, chất lãng mạn hòa quyện trong yếu tố hiện thực.