19. RỐI LOẠN ĐỊNH DẠNG GIỚI TÍNH/MUỘN PHIỀN GIỚI TÍNH

913 28 2
                                    

Gender Dysphoria - Rối Loạn Định Dạng Giới Tính/Muộn Phiền Giới Tính

Nguồn cơn để tôi viết nên bài này là từ một cuộc tranh luận giữa tôi – một người ủng hộ tình yêu đồng tính thật sự, chứ không phải tình yêu theo phong trào, ủng hộ hôn nhân đồng tính và hai page khác, một mang tiếng thầy lang mà lại gọi đồng tính là bệnh, page còn lại là phản đối hôn nhân đồng tính. Tôi sẽ không nói tên page ra đâu, vì cuộc tranh luận này là từ cuối tháng 10 các bạn muốn xem cũng khó. Dẫu sao tôi tranh luận cũng hơn 60 cái com, chẳng ai có kiên nhẫn mà đọc, với lại tính tôi nhỏ mọn, chẳng muốn kéo view cho page mà tôi không thích, vậy chẳng khác gì PR miễn phí.

Trong cuộc tranh luận đó, tôi bàn về Gender Dyphoria –GD , đã từng được gọi là Gender Identity Disorder – GID, được VN mình biết dưới tên Rối loạn định dạng giới tính. DSM-5 ra đời, đã đổi tên bệnh lại, thông qua đó, cũng thay đổi trọng tâm chẩn đoán bệnh. Bệnh này nay được gọi là Muộn phiền giới tính. Trước tiên tôi sẽ nói sơ về bệnh này, sau đó sẽ nói về phần mà tôi tranh luận và hy vọng rằng các bạn sẽ hiểu về hơn nội dung.

Cảm nhận của mỗi con người về việc mình là nam hay là nữ chính là định dạng giới tính. Định dạng giới tính gần như phản ánh cơ quan sinh lý của một đứa trẻ: Trẻ sơ sinh có bộ phận sinh dục nam học được nó là con trai, còn những trẻ có bộ phận sinh dục nữ học được nó là con gái. Định dạng giới tính khác hẳn với vai trò giới tính – vốn là những tính cách, hành vi và kỹ năng được xác định là phù hợp với nam giới hoặc nữ giới tùy theo văn hóa mỗi nước. Giống như ở Việt Nam mình, đàn ông là phải giỏi giang, gánh vác được cả gia đình, đàn bà là phải giỏi chăm chồng chăm con. Còn ở Mỹ thì đàn ông phải ga lăng, mở cửa xe, kéo ghế cho bạn gái ngồi mới là quý ông lịch sự, phụ nữ thì có thể không lấy chồng, hoặc lấy chồng mà không sinh con là chuyện bình thường.

Có một số người khẳng định rằng cơ quan sinh dục của họ và giới tính không phù hợp với nhau. Ở đàn ông, họ cảm thấy rằng mình là phụ nữ bị mắc kẹt trong cơ thể của một người con trai. DSM-5 xếp loại sự phiền muộn, khó chịu với cơ quan sinh dục là Muộn phiền giới tính. Những người này không hẳn tin tưởng rằng họ thuộc về giới tính còn lại mà họ cảm giác rằng, ngoại trừ là ngoại trừ bộ phận sinh dục thì họ có xu hướng thiên về giới tính bên kia hơn.

Những báo cáo về những người chuyển giới cho thấy họ nhận thức rõ những cảm giác khó chịu, phiền muộn này từ khi còn rất nhỏ. Nhiều báo cáo nói rằng họ mặc đồ và hành xử theo vai trò giới tính của giới tính còn lại. Nghĩa là đối với một bé trai mắc chứng này, sẽ có xu hướng mặc đồ và có hành vi như những bé gái. Mức độ nặng nề của sự khó chịu thay đổi tùy theo mỗi người. Nó sẽ ít dao động và dẩn dần chuyển nặng hơn khi đứa trẻ ấy bước vào tuổi vị thành niên với những sự thay đổi sinh lý cơ thể như con gái thì bắt đầu có ngực, và hông bự ra, còn con trai thì bắt đầu thay giọng, mọc râu và có cơ bắp. Những đặc điểm này khiến đứa trẻ khó tham gia vào các hoạt động và hành xử theo giới tính trái ngược. Có rất nhiều trẻ trong độ tuổi này bắt đầu bận tâm với mong muốn phẫu thuật thay đổi cơ quan sinh dục.

Mối liên hệ giữa Muộn phiền giới tính và xu hướng tình dục đến nay vẫn còn nằm trong vòng tranh luận. Một số nhà khoa học nói rằng những người chuyển giới chính là những người đồng tính tự nhận mình thuộc về giới tính còn lại như một cách để tránh sự kỳ thị của xã hội và những giá trị đạo đức không ủng hộ quan hệ đồng tính. Ý kiến này không hợp lý vì hai điều, thứ nhất, đồng tính nữ và đồng tính nam không hề bất mãn với cơ quan sinh dục của họ. Điều này chứng tỏ những người chuyển giới không chỉ đơn giản là muốn trốn khỏi kỳ thị xã hội về đồng tính. Thứ hai, nghiên cứu cho thấy người chuyển giới và người đồng tính có xu hướng gợi dục khác nhau khi tiếp xúc với cùng một kích thích. Cái này tôi đoán là những nhà nghiên cứu dùng biểu đồ điện não để so sánh.

Tâm lý họcWhere stories live. Discover now