Chương 15: LỄ ĐỘI MŨ

328 7 0
                                    


Lễ đội mũ ít lâu nay đã bỏ đi không làm, những bậc trưởng, ấu, lão, thiếu lại không phân biệt rõ ràng, lúc bình thường giao thiệp với nhau chỉ lấy phận vị mà đối đãi. Thành ra, tức
giận tranh nhau, thù oán lẫn nhau, cũng bởi thế cả. Có kẻ tuổi chưa đúng mực đã lạm kể bằng cụ già; có kẻ tuổi còn măng sữa đã vội leo lên bậc trưởng thành; trong hàng trăm, hốt,
quan tư, lại kể sớm muộn mà lấn át bậc tôn trưởng; ở những nhà quan sang quí thích, thường thấy con cháu nạt cả cha chú; thậm chí có kẻ ngu như cục gỗ mà dám kiêu ngạo với
cả quốc dân, phẩm cách tầm thường mà dám tự cao với đồng bối. Lầm lẫn theo thói quen mà không biết đâu là phải; muốn sửa đổi thì phải trở lại gốc rễ mới được. Hoặc có kẻ nói "Cứ theo quan lễ thì phải đội mũ và phải dùng lễ tam gia, nay tục nước ta quen thói búi tóc; truy cân (1) cũng là đặt xuống thôi, bức cân (2) cũng không thường dùng đến, mũ phốc đầu (3) không phải bậc sĩ hoạn không được đội; con gái không có lối trang sức búi tóc cài trâm; thế mà nay đám gì cũng muốn theo quan lễ đời cổ thì chẳng buồn cười lắm ru?". Điều này không hề thấy ở người đời Đường (4). Không phải thế đâu. Đời xưa, con trai con gái, nếu đã
qua cái tuổi để trái đào rồi, thì con trai cho đội mũ, con gái cho cài trâm mà dạy bảo lấy đạo thành nhân (5). Vậy nên mới đặt ra lễ tam gia, nghĩa là lần thứ nhất thì cho đội mũ vải thâm,
lần thứ hai thì cho đội mũ bì biện (6), lần thứ ba thì cho đội mũ tước niệm (7). Đến đời Tống mới đổi ra một thứ truy bố quan (8), một thứ bức cân và một thứ phốc đầu, đó cũng là bắt
chước cái lẽ ấy, chứ không nệ gì cổ chế. Người nước ta không đội thứ mũ truy bố quan, nhưng cũng có cái khăn bao đinh để vén tóc; hoặc có người đội khăn bức cân, mũ phốc đầu,
song không tiện cho những người chưa làm quan; còn như mũ chữ đinh thì ai cũng dùng cả. Có lẽ nào mũ biện, mũ miện đời cổ có thể biến thành khăn bức cân, mũ phốc đầu đời Tống, mà không thể đổi làm khăn bao đinh, mũ đời nay ư? Còn như con gái không có tục cài trâm, nhưng thói quen vẫn chít khăn lượt, đeo hoa tai để trang sức. Có chí muốn giữ lễ cổ thì bất tất phải nệ lễ văn, chỉ theo lễ ý là đủ (9). Tuy thế, đây chẳng qua vì những bậc sĩ thứ hiếu cổ mà bàn, chứ còn như các bậc anh quân hiền tướng đắc thời mà chấn chỉnh thi hành, thì
không có chừng hạn như thường tình tục sáo (10) được.

Ít lâu nay, không mấy người bàn đến lễ, chỉ người nào mới đỗ hương cống, phải theo quan chủ khảo vào diễn tập qua những lễ nghi bái quy, còn ngoài ra không hiểu gì cả. Ta thường thấy những con nhà giòng dõi thế gia, dung mạo trông cũng đẹp đẽ, phục sức ra bộ xa hoa, thế mà đến khi phải đóng mũ áo vào trợ tế hoặc tiếp tân, thì cử chỉ luống cuống; có anh lại rụt rè sợ hãi như cô dâu mới trông thấy mẹ chồng, không khỏi thế tục họ cười cho. Có người muốn sửa chữa thì lại làm ra bộ kiểu cách dối trá, cợt nhả, cười đùa, làm cho loạn mất sự thực đi, không biết rằng trong làm lễ mà tỏ ra trang nghiêm hay cẩu thả, dù trong chốc lát cũng không thể che lấp được lầm lỗi. Vậy thì lễ nghi phải học tập mới được.

Đời xưa thì búi tóc trên đỉnh đầu, lấy mũ bằng vải thâm đội lên cho chặt. Cho nên mũ biện thì nhọn đầu, mũ miện thì dài như cái ống, khăn đội thì làm trùng đài (11) nổi cao lên, đều là làm cái chỗ để chứa búi tóc. Người nước ta bỏ xõa tóc, không cần phải đội mũ cao, vậy muốn biến đổi phong tục thì phải đợi bậc cao minh và phải làm dần dà đến hết đời mới xong được.

Đàn bà đời cổ vẫn có mũ để che tóc, đàn bà ta thì chỉ dùng khăn lượt để cuốn tóc mà thôi, lúc yết kiến bậc tôn trưởng, lại xòa tóc xuống để làm kính lễ. Đời vua Lê Hiển Tông (12) mới cho những kẻ cung nhân búi tóc lệch mà đội mũ, kiểu mũ ấy tròn và cao... Lúc hầu thường thì đội mũ ấy, lúc ra tấu nhạc vẫn đội một thứ mũ tròn, chữ đinh, không khác gì các cung tần
hầu ở trong vương phủ. Còn các bà mệnh phụ ở ngoài đình thì cách đội mũ chưa có định chế.

Vua Đinh Tiên Hoàng bắt đầu chế ra một thứ khăn tứ phương bình đính, kiểu vuông mà trên đỉnh bằng, làm bằng da; đó là một thứ quân trang, đời sau mới đổi ra mũ lục lăng, hạ
thấp bớt phần trên, làm bằng một thứ lụa, bồi bằng sơn; đó là một thứ trang phục, gọi là mũ bình đính. Lại có thứ mũ, đổi kiểu vuông ra kiểu tròn, uốn bề thẳng làm bề cong, làm thứ mũ thông dụng khi vào triều, gọi là mũ chữ đinh.

Khoảng năm Chính Hòa, Bảo Thái (13), ông Nguyễn Công Hãng có phân biệt các hạng mũ. Mũ bình đính thì từ công tướng cho đến kẻ lại sĩ, đều cứ theo cao thấp mà phân biệt. Mũ vua
ngự thêu thêm chỉ kim tuyến để phân biệt. Mũ chữ đinh chia làm ba hạng: hạng nhất hình tròn, đỉnh đầu bằng, dệt bằng mã vĩ; lại nạm vàng bạc ở mặt trước trán để phân biệt thứ bậc; hoàng thượng và chúa thượng khi nhàn cư và các hoàng tử, vương tử khi vào hầu, đội thứ mũ ấy. Thứ hai là mũ lục lăng, đỉnh đầu trũng xuống, làm bằng sa nam, để cho các quan
nội giám khi vào hầu dùng. Thứ ba là mũ hình tròn, may chùng lại, làm bằng vải thanh cát (màu xanh sẫm) để cho kẻ sĩ thứ, quân lính và thư lại dùng. Nhưng khi gặp quốc tang thì
quan đại thần ra coi việc quan cũng đội thứ mũ màu thanh cát ấy, duy hình thể có hơi khác đi mà thôi.

Mũ phốc đầu là một thứ thường phục của cổ nhân, thấy chép ở đồ hành lạc trong vườn độc lạc (14) của Ôn Công.
Vua Thái Tổ nhà Minh diệt nhà Nguyên rồi mới phỏng theo lối cũ mà chế ra thứ mũ đại triều cho các quan văn, hoặc gọi là tiến hiền quan. Nhưng kì thực không phải ta theo như
thế. Trong năm Khang Hy thứ hai mươi mốt (15), ông Nguyễn Công Hãng sang sứ Trung Hoa, tìm xét cổ điển nhà Minh, khi trở về định phục chế, thì lấy mũ phốc đầu và áo vân cẩm cổ tròn làm áo mũ đại triều thông dụng của các quan văn võ. Còn như lúc ra thị sự và vào hầu thường, thì quan văn đội khăn lương, quan võ đội khăn yến vĩ. Đó đều là tự ông Nguyễn Công Hãng chế ra. Khi nhỏ ta thường thấy các bậc tiền bối nhàn cư đội một thứ mũ bao đính bằng mã vĩ, kiểu tròn mà đầu bằng, cao độ một thước, hoặc đội khăn bát tiên. Nhà sĩ thứ đội khăn bức cân và khăn bát tiên, hai thứ ấy đều không phải là công phục.

Khăn bát tiên thì làm bằng đoạn huyền hay bằng sa the, trên đỉnh có gài mấy hoa cúc, tết vòng quanh lên như thứ mũ trúc quan đời cổ, dải buộc vòng quanh trán, bỏ rũ về đàng sau, hai bên mang tai lại có rũ diềm; đó là phỏng theo lối khăn bao đính mà làm cho văn vẻ thêm ra. Kiểu khăn bức cân thì gấp xếp lại làm một thứ khăn vuông, trong gia lễ đã nói rõ.
_______

(1) Khăn vải thâm.

(2) Bức cân là đội toàn cả khổ lụa để cuốn tóc.

(3) Mũ phốc đầu từ đời Đường làm bằng sa như cái núi có bốn dải rũ xuống, sau làm như
hình mũ cánh chuồn.

(4) Câu này không thấy trong bản dịch.

(5) Bản dịch viết là “đạo thánh nhân”.

(6) Mũ làm bằng da là lối mũ võ.

(7) Một thứ mũ văn theo về lễ phục.

(8) Truy bố quan là mũ vải đen.

(9) Lễ văn là hình thức của lễ, lễ ý là tinh thần của lễ.

(10) tục sáo là khuôn khổ.

(11) Trùng đài là một tầng cao.

(12) Tức Cảnh Hưng (1740 – 1786).

(13) Chính Hòa (1680 – 1705) là niên hiệu Lê Hy Tông. Bảo Thái (1720 – 1729) là niên hiệu
Lê Dụ Tông.

(14) Tức “Độc lạc viên hành viên đồ”.

(15) Tức năm 1707.

VŨ TRUNG TÙY BÚT Where stories live. Discover now